Có những cái chết lẽ ra không xảy ra nếu người tham gia sơ cứu biết luật "thời gian vàng" và thực hiện đúng cách. Lời khuyên của BS Bạch Văn Cam, trưởng Khoa Cấp cứu Hồi sức BV Nhi đồng I (TP.HCM) về phòng ngừa và sơ cứu các tai nạn: ngạt nước, phỏng và dị vật đường thở.
Ngạt nước
- Yếu tố nguy cơ: Trẻ nhỏ: Ao, giếng hay các dụng cụ chứa nước trong nhà như thùng nước, lu nước, bồn tắm, ao giếng... Trẻ lớn và người lớn: Ao, hồ, sông, biển, bị kiệt sức vọp bẻ trong khi bơi, động kinh...
- Sơ cứu: Nhanh chóng đưa nạn nhân khỏi mặt nước và cho nằm chỗ khô ráo thoáng khí. Trong trường hợp nạn nhân tỉnh và không khó thở, để cho nạn nhân nằm nghiêng, giữ ấm và sau đó đưa đến cơ sở y tế. Trong trường hợp nạn nhân bất tỉnh hôn mê, ngưng thở ngưng tim, phải kịp thời cấp cứu hoặc sơ cứu trong khoảng thời gian vàng 4 phút bằng phương pháp thổi ngạt và ấn tim. (Nếu quá thời gian 4 phút, sẽ gây tổn thương não; quá 10 phút: sẽ để lại di chứng não hoặc tử vong). Duy trì việc ấn tim, thổi ngạt trên đường chuyển nạn nhân tới bệnh viện.
- Nên tránh: Các hành động như xốc nước, hơ lửa, "lăn lu" vì sẽ làm chậm trễ việc cấp cứu, gây tử vong hoặc để lại di chứng do phỏng lửa. Cũng tránh biện pháp dang hai tay ép ngực. Thực chất biện pháp này không hiệu quả vì khi nạn nhân bị ngạt nước, lượng nước vào phổi rất ít.
- Lời khuyên: Không để trẻ nhỏ ở nhà một mình. Đậy kín các vật chứa và không cho trẻ lại gần thùng, lu nước, bồn tắm, ao giếng. Đối với trẻ lớn, nên cho trẻ đi học bơi, và không cho trẻ bơi ở những chỗ lạ. Những trẻ mắc chứng động kinh thì không nên cho trẻ "đùa với nước".
Dị vật đường thở
- Yếu tố nguy cơ: Trẻ nhỏ: Sặc sữa, cháo, cơm, đồ chơi nhỏ... Trẻ lớn, người lớn: Hạt đậu phọng, mãng cầu, sa-pô-chê.
- Sơ cứu: Nếu nạn nhân tỉnh, hồng hào và không khó thở: Nên bồng trẻ nhỏ và ngăn không cho chúng khóc để tránh dị vật chạy ngược lên khí quản.
Nếu thấy nạn nhân khó khở, tím tái, khóc yếu hoặc ngưng thở:
+ Đối với trẻ nhỏ, dùng tay đỡ trẻ nằm sấp, đầu chúc xuống, vỗ mạnh lưng trẻ năm cái (như hình 1).
Sau đó, lật ngửa trẻ lại và ấn ngực năm cái (như hình 2). Có thể lặp lại sáu lần, nếu cần.
+ Đối với trẻ lớn/người lớn: Người sơ cứu đứng sau nạn nhân, vòng hai tay ra trước với một bàn tay co lại như nắm đắm, tay kia đặt lên trên. Thực hiện ấn bụng thượng vị năm cái (như hình 3).
Nếu nạn nhân ngưng thở, hôn mê, đặt nạn nhân nằm ngửa và đặt hai tay dưới chóp xương ức, ấn năm cái (như hình 4). Lặp lại sáu lần, nếu cần.
- Nên tránh: Không nên móc họng (vì dị vật sẽ càng bị đẩy sâu xuống phía dưới), vuốt ngực, vỗ đầu trán, uống nước, nuốt cơm, cạo gió. Những cách làm này sẽ không hiệu quả và có thể gây nguy hiểm cho nạn nhân.
- Lời khuyên: Cho trẻ nhỏ bú sữa đúng cách. Không nên cho ăn, bú, uống thuốc khi trẻ cười vì sẽ dễ làm cho trẻ bị sặc, thức ăn dễ lọt vào đường thở. Cũng không cho trẻ chơi đồ chơi nhỏ, không phù hợp, hay nghịch với các loại hạt.
Phỏng
- Yếu tố nguy cơ: Điện, hóa chất, nhiệt ướt (cháo, nước sôi, nước canh, dầu,...) và nhiệt khô (lửa, đống un, bàn ủi, pô xe máy,...).
- Sơ cứu: Nên đưa nạn nhân ra khỏi lửa, nguồn nhiệt và làm nguội vết phỏng bằng cách cởi bỏ quần áo (nếu dính hóa chất). Sau đó, dội nước sạch vết phỏng. Hạn chế nhiễm khuẩn vết phỏng bằng cách thoa pommade Silve Sulfadiazine. Đóng vết phỏng bằng băng gạc vô trùng hoặc vải sạch. Nếu phát hiện dấu hiệu nhiễm khuẩn như sưng đỏ, có mủ thì phải điều trị bằng kháng sinh.
Nếu phỏng nặng, nên cho nạn nhân uống nhiều nước. Nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế khi có diện tích phỏng trên 10% (một bàn tay) hoặc có dấu hiệu nguy hiểm: ngất xỉu, khó thở, tay chân lạnh.
- Nên tránh: Không bôi kem, nước mắm, con giấm, làm bể bọng nước trong quá trình sơ cứu vì sẽ gây nhiễm trùng và làm nặng thêm vết bỏng.
- Lời khuyên: Tránh sử dụng lại bình ga mi-ni, không châm thêm khi dầu hoặc alcol đang cháy. Không cho trẻ chơi gần lửa, bếp, đống un. Bình thuỷ, bình hoá chất nên để xa tầm với của trẻ. Không thiết kế ổ điện thấp và thiếu an toàn.
0 nhận xét